Viễn cảnh đáng sợ đại dịch COVID-19 cuối năm 2020 và những năm tiếp theo sẽ ở lại với chúng ta!

Thứ hai - 24/08/2020 02:55
Đại dịch Covid-19 sẽ còn kéo dài đến bao lâu? Virus có biến mất vĩnh viễn hay sẽ trở thành một căn bệnh mới giống như cúm mùa? Vaccine có bảo vệ được con người an toàn trước virus này hay không?
Viễn cảnh đáng sợ đại dịch COVID-19 cuối năm 2020 và những năm tiếp theo sẽ ở lại với chúng ta!
Đại dịch virus corona này sẽ còn tiếp diễn trong một thời gian dài, và sau đây là những dự báo của các nhà khoa học cho nhiều năm tháng sắp tới.
 
Đến tháng 6/2021, đại dịch trên thế giới đã kéo dài một năm rưỡi. Virus tiếp tục lây lan nhưng với tốc độ chậm hơn. Trong trạng thái bình thường mới, lệnh phong tỏa ngắt quãng sẽ là một phần của tình trạng đó. Một loại vaccine đã được phê duyệt mang lại khả năng bảo vệ trong 6 tháng, nhưng các thỏa thuận quốc tế khiến cho việc phân phối vaccine bị chậm. Ước tính có khoảng 250 triệu người nhiễm bệnh trên toàn thế giới và 1,75 triệu người chết vì đại dịch.
 
Đây là viễn cảnh chúng ta đang hình dung về cách đại dịch COVID-19 xảy ra.
 
Nhiều người nghĩ rằng dịch đang đi đến hồi kết. Điều đó không đúng!
 
Trên khắp thế giới, các nhà dịch tễ học đang tiến hành những dự báo ngắn hạn lẫn dài hạn, nhằm chuẩn bị và giảm thiểu sự lây lan cũng như mức độ ảnh hưởng của SARS-CoV-2. Mặc dù các dự báo và mốc thời gian đều khác nhau, nhưng các tác giả của mô hình dự đoán đều đồng ý về hai điều sau:
 
1.COVID-19 sẽ tồn tại cùng với chúng ta.
 
2. Tương lai phụ thuộc rất nhiều vào những điều mà chúng ta còn chưa biết, bao gồm cả việc con người có phát triển khả năng miễn dịch lâu dài với virus hay không, các mùa trong năm ảnh hưởng thế nào đến khả năng lây lan của bệnh. Trong đó quan trọng nhất, có lẽ là cách lựa chọn của chính quyền và người dân.
 
"Rất nhiều nơi đang mở cửa trở lại, trong khi các nơi khác thì không. Chúng tôi thật sự chưa biết điều gì sẽ xảy ra". Rosalind Eggo, nhà dự đoán mô hình dịch tễ tại Trường Y học nhiệt đới và vệ sinh London (LSHTM) cho biết.
 
Joseph Wu, nhà dự đoán mô hình dịch tễ tại Đại học Hồng Kông cho biết: "Tương lai phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tương tác xã hội đến đâu và các biện pháp dự phòng được thực hiện".
 
Các mô hình và các bằng chứng gần đây từ sự thành công của việc phong toả các thành phố và quốc gia gợi ý rằng các thay đổi hành vi có thể làm giảm sự lây truyền của COVID-19 nếu phần lớn mọi người đều tuân thủ.
 
Tuần này, số ca nhiễm COVID-19 đã đạt đến con số hơn 23 triệu người trên toàn cầu, với khoảng 812.104 ca tử vong (cập nhật đến sáng 24/8).
 
Yonatan Grad, một nhà dịch tễ học tại Trường Y tế Công cộng Harvard T.H. Chan ở Boston, (Massachusetts, Mỹ) cho biết, lệnh phong toả đang được nới lỏng ở nhiều quốc gia, khiến một số người nghĩ rằng đại dịch đang đi đến hồi kết. "Nhưng điều đó không đúng, chúng ta còn cả chặng đường dài."
 
Chẳng hạn, nếu khả năng miễn dịch với virus chỉ tồn tại dưới một năm (tương tự với các chủng virus corona khác đang lưu hành ở người), thì hàng năm có thể sẽ có các đợt cao điểm nhiễm COVID-19 cho đến năm 2025 và xa hơn.
 
Điều gì sẽ xảy ra trong tương lai gần?
 
Đại dịch xảy ra ở mỗi nơi mỗi khác. Các nước như Trung Quốc, New Zealand và Rwanda đều có tỉ lệ ca nhiễm giảm xuống thấp sau khi ban hành các lệnh phong tỏa với thời gian kéo dài khác nhau. Hiện tại các nơi này đang nới lỏng các biện pháp hạn chế trong khi vẫn giám sát các đợt bùng phát.
 
Ở những nơi khác, chẳng hạn Hoa Kỳ và Brazil - những nơi chưa bao giờ phong toả trên toàn quốc hoặc đang/đã gỡ bỏ lệnh phong tỏa, số ca nhiễm đang tăng nhanh.
 
Nhóm "chưa bao giờ phong tỏa trên toàn quốc" khiến các chuyên gia về mô hình dự đoán đang rất lo lắng. Tại Nam Phi - quốc gia hiện đứng thứ 5 trên thế giới về tổng số ca nhiễm COVID-19, một nhóm các nhà chuyên môn ước tính dịch sẽ đạt đỉnh vào tháng Tám hoặc tháng Chín với khoảng 1 triệu ca đang nhiễm. Vào đầu tháng 11, tổng cộng có 13 triệu ca có triệu chứng.
 
Juliet Pulliam, giám đốc Trung tâm mô hình và phân tích dịch tễ Nam Phi tại Đại học Stellenbosch tiết lộ về tình trạng nguồn lực của bệnh viện như sau: "Chúng tôi bây giờ cũng đã bị quá tải ở một số khu vực, vì vậy tôi nghĩ ngay cả với dự đoán tích cực nhất thì cũng không tốt đẹp gì".
 
Tuy nhiên, cũng có tín hiệu tích cực khi nới lỏng các biện pháp phong tỏa. Các bằng chứng ban đầu cho thấy những thay đổi hành vi cá nhân, như rửa tay và đeo khẩu trang, vẫn đang được tiếp tục duy trì kể cả khi không còn phong toả nghiêm ngặt và đã giúp ngăn chặn làn sóng lây nhiễm.
 
Trong một báo cáo vào tháng 6, một nhóm tại Trung tâm phân tích bệnh truyền nhiễm toàn cầu MRC tại Trường Đại học Hoàng gia London đã phát hiện ra trong số 53 quốc gia bắt đầu mở cửa trở lại, sự gia tăng số ca mắc không lớn như các dự đoán trước đó. "Họ đã đánh giá thấp mức độ thay đổi hành vi của con người về việc đeo khẩu trang, rửa tay và giãn cách xã hội.
 
Hoàn toàn không còn giống như trước đây", Samir Bhatt, một nhà dịch tễ học về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Hoàng gia London và là đồng tác giả của nghiên cứu cho biết.
 
Các nhà nghiên cứu tại các tâm dịch đang tiếp tục tìm hiểu sự hữu ích của các hành vi trên. Tại Đại học Anhembi Morumbi ở São Paulo, Brazil, nhà sinh học máy tính Osmar Pinto Neto và các đồng nghiệp đã chạy thử hơn 250.000 mô hình toán học về các chiến lược giãn cách xã hội được phân theo 3 mức độ: liên tục, ngắt quãng hoặc "giảm dần"- mức độ nghiêm ngặt được giảm dần trong các giai đoạn - cùng với các cán thiệp về hành vi như đeo khẩu trang và rửa tay.
 
Nhóm nghiên cứu kết luận nếu 50-65% người dân thận trọng khi ở nơi công cộng thì việc thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội giảm dần sau mỗi 80 ngày có thể giúp ngăn ngừa các đỉnh dịch tiếp theo trong 2 năm tới.
 
Theo Neto, "chúng ta cần phải thay đổi văn hóa về cách tương tác với người khác". Nhìn chung, tin tốt là ngay cả khi không xét nghiệm hoặc không tiêm vaccine, thì các hành vi của con người cũng có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể trong việc lây truyền bệnh.
 
Nếu 70% dân số Mexico rửa tay và đeo khẩu trang thì dịch sẽ giảm
 
Jorge Velasco-Hernández, nhà dự đoán mô hình dịch tễ tại Đại học Tự trị Quốc gia Mexico ở Juriquilla và các đồng nghiệp cũng đã kiểm tra sự cân bằng giữa việc phong tỏa và bảo hộ cá nhân.
 
Họ phát hiện ra nếu 70% dân số của Mexico cam kết đảm bảo thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân như rửa tay và đeo khẩu trang sau khi phong tỏa tự nguyện vào cuối tháng 3, thì đợt bùng dịch ở quốc gia này sẽ giảm xuống sau khi đạt đỉnh vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6. Tuy nhiên, chính phủ đã dỡ bỏ các biện pháp phong tỏa vào ngày 1/6, làm cho con số tử vong hàng tuần đáng lẽ giảm xuống, lại tiếp tục không đổi.
 
Nhóm của Velasco-Hernández cho rằng hai ngày nghỉ lễ toàn quốc được coi là các sự kiện siêu lây nhiễm, tạo ra tỷ lệ mắc bệnh cao ngay trước khi chính phủ gỡ bỏ các biện pháp hạn chế.
 
Ở những vùng mà dịch bệnh dường như đang lắng xuống, các nhà nghiên cứu nói rằng cách tiếp cận tốt nhất là giám sát cẩn thận bằng việc xét nghiệm, cách ly các trường hợp mắc mới và truy vết những người đã tiếp xúc với họ.
 
Hồng Kông là một ví dụ cho điều này. Wu nói "chúng tôi đang thử nghiệm, tiến hành quan sát và điều chỉnh từ từ". Ông hi vọng rằng chiến lược này sẽ ngăn chặn dịch bệnh bùng phát trở lại với quy mô lớn - trừ phi do sự gia tăng giao thông đường hàng không sẽ mang lại số lượng đáng kể các ca nhiễm bệnh nhập cảnh.
 
Nhưng chính xác thì cần truy vết tiếp xúc và cách ly tới mức độ nào để ngăn chặn ổ dịch một cách có hiệu quả? Một phân tích của Trung tâm mô hình toán học về các bệnh truyền nhiễm của nhóm COVID-19 tại LSHTM đã mô phỏng các đợt bùng phát mới với khả năng lây lan khác nhau, bắt đầu với năm, 20 hoặc 40 người khởi phát bệnh đầu tiên.
 
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng việc truy vết phải được thực hiện nhanh chóng và rộng rãi - truy vết 80% những người có tiếp xúc trong vòng vài ngày - để kiểm soát sự bùng phát. Đồng tác giả Eggo cho biết, nhóm đang đánh giá hiệu quả của việc truy vết tiếp xúc kỹ thuật số và thời gian khả thi để cách ly những người bị phơi nhiễm. "Đạt được sự cân bằng giữa chiến lược được người dân chấp nhận và chiến lược có hiệu quả để ngăn chặn sự bùng phát là điều rất quan trọng".
 
Việc truy tìm 80% số người tiếp xúc gần như không thể đạt được ở những khu vực đang vật lộn với hàng nghìn ca nhiễm mới mỗi tuần. Tệ hơn nữa, ngay cả số ca bệnh cao nhất cũng có thể bị ước tính thấp đi.
 
Thực tế số ca bệnh cao gấp 12 lần và số tử vong cao hơn 50% so với các báo cáo chính thức?
 
Một báo cáo chưa được bình duyệt vào tháng 6 từ một nhóm của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) ở Cambridge phân tích dữ liệu xét nghiệm COVID-19 từ 84 quốc gia cho thấy rằng số ca bệnh trên toàn cầu cao hơn 12 lần và số ca tử vong cao hơn 50% so với các báo cáo chính thức (Xem phần "Dự đoán số ca mắc và tử vong").
 
Theo John Sterman, đồng tác giả của nghiên cứu và là giám đốc của MIT System Dynamics Group, "thực tế có nhiều trường hợp hơn những gì số liệu đã chỉ ra. Do đó, nguy cơ lây nhiễm có thể cao hơn những gì chúng ta tin".
 
Bhatt cho biết thêm, hiện tại, các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh, chẳng hạn như giãn cách xã hội, cần được tiếp tục duy trì càng lâu càng tốt để ngăn chặn đợt bùng phát lớn thứ hai. "Cho đến những tháng mùa đông, mọi thứ sẽ trở nên nguy hiểm hơn một chút."
 
covid 19
 
Rõ ràng mùa hè không hoàn toàn ngăn chặn được sự lây lan của virus, nhưng ở các vùng ôn đới, thời tiết ấm áp có thể khiến cho virus dễ được kiểm soát hơn. Các chuyên gia cho rằng vào nửa cuối năm 2020, có nhiều khả năng gia tăng sự lây lan của dịch bệnh.tại những vùng có thời tiết lạnh hơn.
 
Lạnh + nhà kín: Virus khỏe hơn, con người yếu hơn
 
Nhiều loại virus đường hô hấp ở người bao gồm cúm, các chủng virus corona khác ở người và virus hợp bào hô hấp (RSV) thường dao động theo mùa dẫn đến sự bùng phát vào mùa đông, vì vậy có khả năng SARS-CoV-2 cũng sẽ tương tự.
 
Akiko Iwasaki, nhà sinh học miễn dịch tại Trường Y Yale ở New Haven (Connecticut, Mỹ) "dự tính tỷ lệ nhiễm SARS-CoV-2 và khả năng là ngay cả kết cục của bệnh, sẽ tệ hơn vào mùa đông". Bằng chứng cho thấy không khí lạnh khô sẽ khiến virus đường hô hấp ổn định và lây lan dễ dàng hơn. Khả năng miễn dịch của đường hô hấp cũng có thể bị yếu đi do hít không khí khô.
 
Ngoài ra, ông Richard Neher, một nhà sinh học máy tính tại Đại học Basel ở Thụy Sĩ cho rằng, khi thời tiết lạnh hơn, mọi người thích ở trong nhà hơn, trong khi nhà kín lại là nơi lây truyền virus cao hơn qua các giọt bắn. Mô phỏng của nhóm Neher cho thấy sự thay đổi theo mùa có thể ảnh hưởng đến sự lan truyền của virus và có thể gây trở ngại cho việc ngăn chặn dịch bệnh ở Bắc bán cầu vào mùa đông này.
 
Trong tương lai, dịch SARS-CoV-2 có thể sẽ bùng phát thành từng đợt vào mùa đông. Neher cho rằng nguy cơ ở những người trưởng thành đã mắc COVID-19 có thể thấp hơn (như với bệnh cúm) nhưng chúng còn phụ thuộc vào miễn dịch với loại virus corona này sẽ biến mất nhanh như thế nào.
 
Hơn nữa, theo Velasco-Hernández, chuyên gia đang cố gắng thiết lập một mô hình về cách thức các loại virus có thể tương tác với nhau, sự kết hợp của COVID-19, cúm và RSV xảy ra vào mùa thu và mùa đông có thể là một thách thức thực sự.
 
Có kháng thể trong người đã từng nhiễm bệnh không?
 
Hiện vẫn chưa rõ liệu việc đã từng nhiễm các chủng virus corona gây bệnh trên người khác có thể tạo ra bất kỳ sự bảo vệ nào chống lại SARS-CoV-2 không. Trong một thí nghiệm nuôi cấy tế bào có liên quan đến SARS-CoV-2 và liên quan chặt chẽ đến SARS-CoV, các kháng thể từ một virus corona này có thể liên kết với một virus corona khác, nhưng chúng không gây bất hoạt hoặc trung hòa virus.
 
Để chấm dứt đại dịch, virus phải được loại bỏ hoàn toàn trên thế giới – một điều gần như là không thể xảy ra vì sự lây lan của nó - hoặc con người phải có miễn dịch đầy đủ bằng việc tiêm vaccine hoặc do đã từng nhiễm. Ước tính rằng phải có khoảng 55%–80% dân số có miễn dịch thì điều này mới xảy ra, và chúng còn tùy thuộc vào mỗi quốc gia.
 
Thật không may, các khảo sát ban đầu cho thấy còn một chặng đường dài phía trước. Ước tính từ test kháng thể - kết quả chỉ cho biết ai đã tiếp xúc với virus và tạo ra các kháng thể chống lại nó - chỉ ra rằng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ người mắc bệnh và mô hình bệnh chứng minh cho điều này.
 
Một nghiên cứu của 11 quốc gia châu Âu đã tính toán tỷ lệ nhiễm bệnh từ 3%–4% tính đến ngày 4/5/2020, được suy ra từ dữ liệu về tỷ lệ ca bệnh trên số ca tử vong và số ca tử vong đã có.
 
Tại Mỹ, nơi đã có hơn 150.000 người tử vong do COVID-19, một cuộc khảo sát với hàng nghìn mẫu huyết thanh, do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) điều phối, cho thấy tỷ lệ lưu hành kháng thể trong cơ thể dao động từ 1% đến 6,9%, tùy thuộc vào vị trí.
 
Điều gì xảy ra vào năm 2021 và sau đó?
 
Chiều hướng của đại dịch trong năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự có mặt của vaccine, và thời gian hệ thống miễn dịch duy trì sự bảo vệ sau khi tiêm chủng hoặc phục hồi sau khi mắc bệnh.
 
Nhiều loại vaccine tạo ra miễn dịch trong nhiều thập kỷ chẳng hạn như vaccine sởi hoặc bại liệt; trong khi những loại khác như ho gà và cúm sẽ dần mất tác dụng theo thời gian. Tương tự, một số bệnh nhiễm trùng do virus tạo ra miễn dịch kéo dài, một số khác thì chỉ tạo ra miễn dịch ngắn hạn.
 
Trong một bài báo vào tháng 5 về thăm dò các tình huống có thể xảy ra, Grad, Marc Lipsitch-nhà dịch tễ học Harvard và các đồng nghiệp đã viết "Tổng tỷ lệ mắc SARS-CoV-2 đến năm 2025 sẽ phụ thuộc chủ yếu vào thời gian miễn dịch".
 
Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa biết chính xác về thời gian miễn dịch SARS-CoV-2 có thể kéo dài trong bao lâu. Một nghiên cứu trên 15 bệnh nhân đã hồi phục cho thấy các kháng thể trung hòa vẫn tồn tại sau 40 ngày kể từ khi mắc bệnh; một số nghiên cứu khác cho thấy rằng nồng độ kháng thể giảm dần sau vài tuần hoặc vài tháng.
 
Nếu COVID-19 cũng giống với mô hình như SARS thì các kháng thể có thể tồn tại với nồng độ cao trong vòng 5 tháng và giảm chậm trong 2-3 năm. Tuy nhiên, tạo ra kháng thể không phải là cách thức bảo vệ miễn dịch duy nhất; các tế bào trí nhớ B và T cũng bảo vệ cơ thể chống lại các đợt tấn công về sau của virus, dù vai trò của chúng trong việc lây nhiễm SARS-CoV-2 vẫn ít được biết đến.
 
Bốn chiều hướng phát triển của dịch
 
Để có câu trả lời rõ ràng về miễn dịch, các nhà nghiên cứu sẽ cần phải theo dõi nhiều người trong thời gian dài. Theo ông Michael Osterholm, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Chính sách về Bệnh Truyền nhiễm (CIDRAP) tại Đại học Minnesota (Minneapolis, Mỹ): "Chúng tôi chỉ có thể chờ đợi."
 
Grad nói rằng "Nếu lây nhiễm tiếp tục tăng nhanh mà không có vaccine phòng ngừa hoặc miễn dịch bền vững thì chúng ta sẽ thấy virus lưu hành thường xuyên và rộng rãi.". Trong trường hợp đó, virus sẽ trở thành bệnh địa phương.
 
"Sẽ cực kỳ khổ sở/ khốn đốn. Thực ra điều này không khó hình dung: sốt rét, một căn bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được đã gây ra cái chết của hơn 400.000 người mỗi năm"
 
"Những tình huống xấu nhất này thực ra vẫn đang xảy ra ở nhiều quốc gia với những căn bệnh có thể phòng ngừa được, và cũng đã cướp đi vô vàn sinh mạng".
 
Nhóm nghiên cứu của Harvard nhận định nếu loại virus này chỉ tạo ra miễn dịch ngắn hạn – (tương tự như hai loài virus corona khác ở người là OC43 và HKU1), kéo dài trong 40 tuần thì sau đó con người có thể bị mắc bệnh trở lại và tạo thành các đợt bùng dịch hàng năm.
 
Một báo cáo bổ sung CIDRAP dựa trên xu hướng của tám đại dịch cúm toàn cầu, chỉ ra COVID-19 sẽ hoạt động mạnh trong ít nhất 18–24 tháng tới, hoặc dưới dạng một loạt đỉnh dịch giảm dần, hoặc dưới dạng "âm ỉ" tức lây nhiễm liên tục không thể hiện quy luật đỉnh dịch rõ ràng.
 
COVID-19 sẽ hoạt động mạnh trong ít nhất 18–24 tháng tới, hoặc dưới dạng một loạt đỉnh dịch giảm dần, hoặc dưới dạng "âm ỉ" tức lây nhiễm liên tục không thể hiện quy luật đỉnh dịch rõ ràng.
 
Tuy nhiên, những điều này vẫn chỉ là phỏng đoán, bởi vì đại dịch này cho đến nay vẫn không theo quy luật của bất kỳ đại dịch cúm nào. "Chúng ta đang ở trong đại dịch virus corona chưa từng có tiền lệ trong lịch sử loài người", theo Osterholm.
 
Một khả năng khác, miễn dịch với SARS-CoV-2 là vĩnh viễn. Trong trường hợp đó, ngay cả khi không có vaccine, có thể sau khi một vụ dịch bùng phát khắp thế giới, virus có thể tự yếu đi và biến mất vào năm 2021. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu Harvard phát hiện ra rằng, nếu miễn dịch chỉ ở mức trung bình, nghĩa là kéo dài khoảng hai năm, thì sẽ có lúc tưởng như virus này đã biến mất, nhưng lại có thể bùng phát trở lại vào cuối năm 2024.
 
Cụ rùa bách niên Fernadina được đưa vào sách đỏ
 
Song những dự báo đó chưa xét đến việc phát triển các loại vaccine hiệu quả. Velasco-Hernández cho biết không thể không có vaccine, do những nỗ lực và kinh phí to lớn đã được dành cho lĩnh vực này, và thực tế là một số loại ứng cử viên vaccine đã được thử nghiệm trên người.
 
Tổ chức Y tế Thế giới đã liệt kê ra 26 loại vaccine COVID-19 hiện đang được thử nghiệm ở người, trong đó có 12 loại ở giai đoạn II và 6 loại ở giai đoạn III. Wu cho rằng, ngay cả khi vaccine không mang lại sự bảo vệ tuyệt đối thì nó cũng sẽ giúp giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh và ngăn chặn tình trạng nhập viện. Tuy nhiên, ngay cả khi đã thử nghiệm vaccine thành công rồi thì cũng sẽ mất nhiều tháng để sản xuất và phân phối.
 
Thế giới không bị ảnh hưởng như nhau bởi COVID-19. Eggo cho biết, dựa trên một mô hình toán học từ nhóm nghiên cứu của bà được xuất bản vào tháng 6 và dựa trên dữ liệu từ 6 quốc gia cho thấy rằng khả năng dễ bị lây nhiễm ở trẻ em và người dưới 20 tuổi chỉ xấp xỉ một nửa so với những người lớn tuổi thì ở các giai đoạn sau của vụ dịch, các khu vực có dân số già hơn sẽ có nhiều trường hợp mắc bệnh hơn,
 
Pulliam nói rằng, "nói chung, có một điểm chung giữa mọi quốc gia, thành phố và cộng đồng bị ảnh hưởng bởi đại dịch, đó là có quá nhiều điều chúng ta chưa biết về loại virus này. Chừng nào chưa có các dữ liệu tốt hơn, thì chúng ta sẽ còn có rất nhiều những điều không chắc chắn".
 
Ngay cả khi vaccine không mang lại sự bảo vệ tuyệt đối thì nó cũng sẽ giúp giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh và ngăn chặn tình trạng nhập viện.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Facebook

Chúng tôi trên mạng xã hội

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây